|
"William Delbert Gann – Ông chủ thị trường"
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết thực sự rằng William Delbert Gann có kiếm được số tiền 50 triệu Đô la trong nửa đầu thế kỷ trước hay không. Nhưng chúng ta có thể chắc rằng ông ta đã là một ông chủ thực sự của thị trường, người mà những khám phá cũng như các quy luật giao dịch của ông vẫn được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới – sau hơn nửa thế kỷ tính từ ngày ông qua đời.
W.D. Gann sinh ngày 6 tháng 6 năm 1878 tại in thị trấn Lufkin, tiểu bang Texas. Cha ông ta, ông Samuel Houston Gann, là một thầy giáo có nghề tay trái là kinh doanh gia súc và ngựa. Cha ông ta cũng sở hữu một câu lạc bộ bi-a. Mẹ của Gann, bà Susan Rebecca Gann, dành gần hết thời gian để nuôi dưỡng Gann và các anh chị em của ông ta. Bà đã dạy cậu bé William cách đọc Kinh thánh – cuốn sách mà đã có ảnh hưởng lớn đến cách ông ta nghĩ về bản chất tự nhiên của thị trường.
Gia đình Gann là một gia đình nghèo. Samuel, Susan và tám đứa bé sống trong một ngôi nhà nhỏ, và cậu bé Gann phải đi bộ hơn 7 dặm mỗi ngày tới trường, trong 3 năm liền. Gann không học trung học.
Năm 1894, William D. Gann, vào độ tuổi 16, đã ít nhiều được phép tự quyết định cho cuộc sống của bản thân, đã bỏ học và tìm bắt đầu việc làm. Gann gia nhập đội ngũ bán hàng rong, kinh doanh báo, thực phẩm và các loại vật dụng cá nhân khác trên các chuyến tàu khứ hồi từ thị trấn Texarkana đến thị trấn Tyler, tiểu bang Texas. Ông ta cũng đã làm việc tại các nhà kho bông nguyên liệu.
Năm 1901, khi đang làm việc cho một văn phòng môi giới ở thị trấn Texarkana, Gann cưới người vợ đầu tiên, cô Rena May Smith.
Năm 1902, Nora – cô con gái đầu tiên ra đời. Năm này cũng là năm mà Gann thực hiện giao dịch đầu tiên của mình ở thị trường bông nguyên liệu.
Năm 1903 Gann chuyển đến New York. Năm đấy ông ta mới 25 tuổi.
Năm 1905, Macie Burnie – cô con gái thứ hai ra đời. Ngày 12 tháng 09 năm 1905, một bài viết phát hành tại thị trấn Texarkanian, đăng tải nhận định của Gann về giá cả bông nguyên liệu.
Năm 1906 Gann làm việc như là một nhà môi giới ở thành phố Oklahoma.
Năm 1907 Gann kiếm được khoản tiền rất lớn do tiên đoán được sự hoảng loạn của thị trường chứng khoán và sự sụt giảm của thị trường hàng hóa.
Năm 1908, ở độ tuổi mới 30, Gann ly dị Rena và cưới người vợ thứ hai mới chỉ 19 tuổi, cô Sadie Hannify. Gann dành được quyền nuôi dưỡng hai cô con gái nhỏ của người vợ đầu, và chuyển họ đến sống cùng ông ở New York.
Cũng trong năm này, ông đã khám phá ra được nguyên lý “Master Time Factor”. Ông ta tiến hành các giao dịch của mình với hai tài khoản cùng lúc. Tài khoản thứ nhất ông ta mở với số tiền là 300 Đô la, và ông kiếm được khoản lợi nhuận lên đến 25 ngàn Đô la trong khoảng thời gian ba tháng. Tài khoản thứ hai được bắt đầu với số tiền là 130 Đô la, và ông cũng kiếm được khoản lợi nhuận là 12 ngàn Đô la chỉ trong 30 ngày.
Năm 1909 Gann và người vợ thứ hai đã có đứa con chung đầu tiên, lại là một bé gái có tên là Velma. Lúc này Gann đã giành được sự tôn trọng của giới kinh doanh phố Wall như là một nhà kinh doanh có tài năng phi thường.
Ông Richard Wykoff, chủ bút của chuyên san “Ticker and Investment Digest” và là một trong những tác giả được kính trọng nhất của mọi thời đại trong giới báo chí chuyên viết về thị trường chứng khoán, đã có một bài viết về khám phá của Gann cũng như khả năng kinh doanh phi thường của ông. Bài viết này có tên khá dài “William D. Gann. Nhà kinh doanh với những kiến thức và khả năng của riêng mình đã đưa ông ta vào hàng ngũ ưu tú nhất. Sự tiên đoán xuất sắc và thành tích kinh doanh”.
Để kiểm chứng thành tích kinh doanh của Gann, một nhà quan sát độc lập đã tiến hành theo dõi các giao dịch do Gann thực hiện vào tháng Mười cùng năm, và ghi nhận:
“Trong tháng 10 năm 1909, trong vòng 25 ngày giao dịch, Ông Gann đã thực hiện, trước sự có mặt của 4 đại diện của chúng tôi, tổng cộng 286 giao dịch với nhiều loại cổ phiếu khác nhau, cả ở thị trường dài hạn và ngắn hạn. 264 giao dịch trong số này đem lại cho ông lợi nhuận, và 22 giao dịch thua lỗ. Số vốn ban đầu đưa vào kinh doanh đã tăng lên gấp 10 lần, và do vậy khi kết thúc vào cuối tháng, ông đã tạo ra tỷ lệ lợi nhuận là 1.000%.”
“Chúng tôi đã được chứng kiến ông ta trong vòng một ngày thực hiện 16 giao dịch thành công cho cùng một loại cổ phiếu, trong đó 8 giao dịch tại đỉnh điểm giá và 8 giao dịch theo đúng xu hướng của thị trường. Kết quả giao dịch này được chúng tôi kiểm chứng tuyệt đối. Những kỳ công như thế này, kết hợp với những gì Gann đã thực hiện trước đây, quả thực là chưa từng có trong lịch sử của phố Wall”— Chuyên san “Ticker and Investment Digest”, tập 5, số 2, tháng 12 năm 1909, trang 54.
Gann được công nhận là đã kiếm được khoảng một nửa triệu Đô la từ quá trình kinh doanh của ông ta trong vài năm về trước. Đại diện của chuyên san “Ticker and Investment Digest” có thể xác nhận sự thành công của Gann với tư cách là một nhà kinh doanh cổ phiếu.
“Tôi đã chứng kiến ông ta dùng số tiền chỉ là 130 Đô la, và trong vòng ít hơn một tháng biến nó thành khoản tiền hơn 12 ngàn Đô la. Ông ta có thể làm đồng tiền sinh lợi nhanh hơn bất kỳ ai tôi đã từng biết." – Chuyên san Ticker and Investment Digest, tập 5, số 2, tháng 12 năm 1909, trang 54.
Năm 1910 Gann viết cuốn sách đầu tiên của mình, “Speculation a Profitable Profession”. Ông ta cũng thực hiện các bản tin như “The Busy Man's News” và sau này là serie nổi tiếng “Supply and Demand Letter”.
Đầu năm 1914 Gann đã tiên đoán về Thế Chiến thứ I và sự hoảng loạn của thị trường chứng khoán.
Năm 1915 John L. Gann – cậu con trai đầu tiên của ông ra đời.
Tháng 3 năm 1918 Gann tiên đoán chính xác sự chấm dứt của Thế Chiến I và sự thoái vị của Hoàng đế nước Đức. Sự tiên đoán của ông được công nhận bởi nhiều tờ báo có uy tín, bao gồm cả tờ New York Times.
Năm 1919 ông ta bắt đầu làm việc độc lập. Ông phát hành bản tin của mình, “Supply and Demand Letter”, bao gồm các dự báo thường niên của ông về thị trường chứng khoán và thị trường hàng hóa.
Năm 1923 Gann viết cuốn sách “Truth of the Stock Tape”. Cuốn sách này đã được công chúng hoan nghênh rộng rãi như là một cuốn sách tốt nhất từng viết về thị trường chứng khoán.
Trong khoảng thời gian 60 ngày, Gann kiếm được hơn 30 ngàn Đô la từ giao dịch bông nguyên liệu, với số vốn bỏ vào đầu tư ít hơn 1 ngàn Đô la.
Năm 1927 Gann viết cuốn tiểu thuyết “Tunnel Thru the Air”. Gann viết cuốn sách này như là bản liệt kê các khám phá của chính ông. Các khám phá này được “giấu” trong nội dung cuốn sách. Trong nhiều năm sau đó, rất nhiều nhà kinh doanh đã cố suy ra những bí mật của cuốn sách này, nhưng chỉ ít người trong số họ thực sự thành công.
Trong cuốn "Tunnel Thru the Air” Gann đã tiên đoán về Thế Chiến II, đặc biệt là sự kiện nước Mỹ bị tấn công bởi người Nhật. Cuốn sách được phát hành bởi công ty phát hành Financial Guardian.
Cuốn sách mới nhất này của Gann miêu tả cuộc chiến sắp xảy ra, nó cho người đọc biết về các chu kỳ và quy luật được tìm thấy trong Kinh thánh nhằm dự đoán tương lai của các quốc gia cũng như thị trường chứng khoán và thị trường hàng hóa. Các dự đoán đến tận năm 1932, ám chỉ đến các vận động sắp tới của thị trường chứng khoán, bông và ngũ cốc. Một câu chuyện với sự quyến rũ, sự kỳ bí và những kiến thức khoa học hòa lẫn vào nhau đã làm cho cuốn sách này thực sự phổ biến cũng như trở thành cẩm nang cho mọi người ở nhiều lứa tuổi.
Năm 1928 Gann dự báo thành công đỉnh cao phát triển của thị trường chứng khoán vào ngày 3 tháng 9 năm 1929, và cũng dự đoán sự khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử sẽ theo diễn ra ngay sau đó.
Năm 1930 Gann viết cuốn sách “Wall Street Stock Selector”. Trong cuốn sách này ông mô tả tình hình thị trường từ năm 1931 đến năm 1933. Trong năm này ông cũng trở thành thành viên của Sở giao dịch Cao su New York và Sở giao dịch Bông New Orleans.
Năm 1932 Gann khuyên các khách hàng của mình mua cổ phiếu khi giá xuống thấp nhất trong thời kỳ của Đại Suy thoái.
Năm 1936 Gann viết cuốn sách “New Stock Trend Detector”, và đặt sản xuất chiếc máy bay riêng bằng kim loại được đặt tên là Ngôi Sao Bạc. Ông ta là cá nhân đầu tiên ở nước Mỹ sở hữu một chiếc máy bay bằng kim loại. Trong nhiều năm sau đó, ông mua nhiều máy bay cho riêng mình. Viên phi công Elinor Smith phục vụ ông trong 19 năm liền. Gann cũng mua nhiều bất động sản và du thuyền cao tốc.
Năm 1937 Gann viết cuốn sách “How to Make Profits Trading in Puts and Calls”. Ông ly dị người vợ thứ hai Sadie trong năm này.
Năm 1940 Gann viết cuốn sách “Face Facts America”. Trong cuốn sách ông giải thích lý do người Đức thất trận trong Thế Chiến II và lý do tại sao nước Mỹ không nên tham chiến. Ông cũng chỉ ra các vấn đề chính mà chính quyền Mỹ đang gặp phải với chính sách “New Deal”, và các hậu quả của chính sách này.
Năm 1941, Gann trở thành hội viên của Hội đồng Thương mại Chicago danh giá. Ông vận động mạnh mẽ để chống lại Rooseveldt và chính sách “New Deal”. Đây cũng là thời điểm mà chính quyền Mỹ có được khoản ngân sách lớn nhất từ trước cho đến lúc này, và công ty Ford Motor phải tạm ngừng sản xuất trong vòng 1 năm do sự suy giảm nghiêm trọng của nhu cầu.
Cũng trong năm này, Gann viết cuốn sách “How to Make Profits in Commodities”. Cuốn sách này được ghi tác giả là Gann và con trai ông trong lần xuất bản đầu tiên.
Năm 1942 bà Sadie, người vợ thứ hai của Gann qua đời ở tuổi 53.
Năm 1944 ông cưới người vợ thứ ba tên Londi, trẻ hơn ông 30 tuổi. Gann đối xử với bà này như với một nữ hoàng trong sự phản đối cực lực của các con ông. Gann sau đó đã chuyển đến khu vực có khí hậu ấm áp hơn vùng Miami, tiểu bang Florida, nơi mà ông tiếp tục kinh doanh và đầu tư vào bất động sản cũng như tiếp tục dạy các học trò của mình.
Năm 1948 Gann bán công ty của mình cho Joseph Lederer là người ở thành phố St. Louis, tiểu bang Missouri.
Năm 1949 Gann viết cuốn sách “45 Years in Wall Street”. Cộng đồng Mark Twain Quốc tế đã tặng cho Gann tư cách thành viên danh dự cho giá trị mà cuốn sách này đem lại.
Năm 1950 Gann viết cuốn “The Magic Word”. Đây là đóng góp của ông trong lĩnh vực thần giáo.
Ngày 23 tháng Năm năm 1951 Gann cùng với Ed. Lambert thành lập công ty xuất bản Lambert-Gann. Lambert rất nổi tiếng trong việc thiết kế hệ thống đường cao tốc ở Miami.
Gann cập nhật và tái bản cuốn “How to Make Profits in Commodities”, bỏ tên và ảnh của con trai mình trong cuốn sách ra. Lần tái bản năm 1951 của cuốn sách là một thành công lớn. Gann ở độ tuổi 73 của mình vẫn có thể đòi hỏi khoản phí 500 Đô la để có được sự tư vấn của ông trong một ngày.
Ông bán công ty W.D. Gann Research, Inc. cho C.C. Loosely ở New York.
Năm 1954, ở độ tuổi 76, ông mua một du thuyền cao tốc mà ông đặt tên là “The Coffee Bean”, sử dụng những khoản lợi nhuận có được từ thành công trong kinh doanh hàng hóa của mình. with the profits of a very successful commodity trade. Các khám phá và bí mật trong kinh doanh của mình được Gann viết thành cuốn “Great Master Course” và bán với giá 5 ngàn Đô la, tương đương thời giá của một căn nhà trung bình vào năm 1954.
Gann trải qua một cơn đau tim, và ngay sau khi hồi phục ông lại phát hiện ra bị ung thư da dày.
Năm 1955 Gann trở về từ Cuba, nơi mà ông thường xuyên lưu tới để mua xổ số cũng như cá cược trong các trận đua ngựa. Ông khi đó đang bệnh nặng và cảm thấy rất yếu.
Con trai của ông mang ông từ Florida đến New York, và đưa ông vào bệnh viện của Hội giám lý ở khu Brooklyn.
W.D. Gann mất lúc 3:20 chiều ngày 18 tháng Sáu năm 1955, thọ 77 tuổi.
Con của Gann đã thu xếp để ông được chôn cùng với người vợ thứ hai của mình, bà Sadie, trong khu vực Hội tam điểm tại nghĩa trang Greenwood ở Brooklyn, trên một ngọn đồi nhìn xuống đường chân trời của Manhattan và phố Wall mà ông yêu quý.
Đóng góp của W.D. Gann trong lĩnh vực phân tích kỹ thuật
Gann là nhà tiên phong trong lĩnh vực phân tích kỹ thuật. Nhận ra rằng sự chăm chỉ làm việc là nhân tố chính cho sự thành công, Gann miệt mài nghiên cứu cả ngày lẫn đêm trong vòng chín tháng tại Thư viện Astor ở New York và ở Bảo tàng nước Anh. Ông nghiên cứu các dữ liệu về chứng khoán từ năm 1820 trở về sau và dữ liệu về lúa mì trước đó hàng trăm năm. Ông cũng đi Ấn độ và Ai Cập để nghiên cứu thị trường và học hỏi cách thức giao dịch.
Một số người cho rằng lý thuyết của Gann dựa vào các khám phá riêng biệt. Điều này không đúng. Gann tin rằng những biến số của phân tích kỹ thuật (giá, phạm vi và thời gian) có thể phân tích với cùng một phương pháp. Các ký hiệu của ông, một vòng tròn với một hình vuông và một hình tam giác phía trong, là tổng kết kỹ thuật phân tích của ông.
Gann khám phá ra rằng mức giá hỗ trợ và mức giá kháng cự có thể tính toán được bằng cách lấy giá cao nhất của thị trường, và lấy giá này chia cho 4 hoặc chia cho 3 – nói theo cách khác, thành bốn phần hoặc ba phần. Hình vuông và hình tam giác trong vòng tròn ký hiệu của Gann minh họa cho khái niệm này. Những mức giá kháng cự tiếp theo có thể được tính toán bởi cách thực hiện tương tự với các phạm vi và các mốc thời gian khác nhau.
Gann cũng có những khám phá quan trọng về chu kỳ thời gian, bao gồm nguyên lý “Master Time Factor” rất nổi tiếng của ông. Ông đã nghiên cứu các chu kỳ chính như chu kỳ 10 năm, 20 năm, 30 năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm, 80 năm và 100 năm, và đã quan sát những biến động của thị trường trong quá khứ lập lại trong tương lai. Ví dụ, ông gọi năm thứ 5 của mỗi thập niên là “năm của sự thăng thiên”. Năm thứ 5 nào trong mỗi thập kỷ đều là những năm mà thị trường tăng giá (bull market), cho cả chỉ số “All Ordinaries Index” và chỉ số “Dow Jones Industrial Average”, từ năm 1905 đến tận năm 1995.
Gann khám phá ra rằng các thị trường thì đạt đến đỉnh hoặc xuống đến đáy trong các mùa của năm (các điểm đông chí, hạ chí, thu phân và xuân phân trong thiên văn học), và cũng tuân theo lịch sử tăng hoặc giảm trước đó.
Ông ta dạy các học trò của mình cách quan sát các đỉnh và đáy của thị trường trong mỗi 30 ngày hoặc độ góc. Một lần nữa, ký hiệu về ngưỡng kháng cự của Gann, chỉ cho chúng ta thấy chu kỳ 90 ngày, 180 ngày, 270 ngày và 360 ngày và độ góc tính toán (hình vuông) và chu kỳ 120 ngày và 240 ngày và độ góc tính toán (hình tam giác) có thể dự đoán được các đỉnh và đáy quan trọng.
Gann đặc biệt lưu tâm đến các chu kỳ 144 và 360, và ảnh hưởng của các tỷ lệ ¼ và ¼ đối với các chu kỳ này của ông.
Gann là nhà phân tích đầu tiên tìm hiểu và khám phá được tương quan giữa thời gian và giá. Thực tế, ông thường kết luận: “khi thời gian và giá trùng khớp với nhau, sự thay đổi là sắp xảy đến”.
Gann cũng thường xuyên ghi nhận công trạng trong việc phát minh ra những đồ thị hình quạt. Ông không phát minh ra chúng, nhưng ông đã phổ biến chúng và sử dụng chúng như là các yếu tố cơ bản của hệ thống giao dịch của ông – một hệ thống cực kỳ hiệu quả dùng để giao dịch trong thị trường có các xu thế tăng hoặc giảm mạnh.
Gann cũng có nhiều khám phá khác – phần nào bí truyền. Những khám phá này bao gồm Hình vuông của Số chín và các tính toán tăng giảm liên tục như Hình vuông của Số bốn, Đồ thị 360 độ và Đồ thị Sáu cạnh. Các tính toán này đôi khi được sử dụng để dự báo sự liên tục của đáy và đỉnh theo cách thức nhằm gây ấn tượng – nhưng không được rộng rãi ứng dụng!
Những gì còn lại của Gann
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết thực sự rằng William Delbert Gann có kiếm được số tiền 50 triệu Đô la trong nửa đầu thế kỷ trước hay không. Nhưng chúng ta có thể chắc rằng ông ta đã là một ông chủ thực sự của thị trường, người mà những khám phá cũng như các quy luật giao dịch của ông vẫn được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới – sau hơn nửa thế kỷ tính từ ngày ông qua đời.
|
|
Nicholas Roditi - "Lãnh chúa ẩn mình" đằng sau George Soros
Thế giới tài chính nhắc đến George Soros như nhà tiên tri, ông vua chứng khoán. Còn vũ khí tối thượng của đế chế Soros ở phố Wall lại là một cái tên khác, Nick Roditi.
Phố Wall như một lẽ đương nhiên không cần bàn cãi đó là thị trường tài chính nổi tiếng nhất thế giới. Nhưng có những con người gắn với sự thịnh suy nơi đây cũng làm khắp thế giới đổ dồn mọi cặp mắt để dõi theo.
George Soros, kẻ khuynh đảo dòng tiền
Thế giới nay đã không lạ với trùm tài phiệt, tỷ phú mang tên George Soros, kẻ đã từng có những dự đoán ma mị, đầu tư không tưởng, nhiều lần liều lĩnh tung hứng với những con số chứng khoán để trong nháy mắt ẵm cả một gia tài. Cái tên Soros song hành được xưng tụng như một anh hùng vì những công cuộc từ thiện và một tội đồ vì các phi vụ đầu cơ phá hỏng cả định chế tài chính của một quốc gia. Năm 1992, với khoản tiền đầu tư 10 tỷ USD vào đồng bảng Anh sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, chỉ trong một tuần ông đã mang về cho mình hơn 1 tỷ USD lợi nhuận khiến đồng bảng Anh chới với. Ngay cả sự kiện khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, kinh tế Thái Lan rơi vào suy thoái do đồng baht Thái bị phá giá xuống còn một nửa, Soros không thoát khỏi vòng nghi ngờ đã nhúng tay vào gây nên hiệu ứng domino, ảnh hưởng đến cả thị trường Mỹ.
G. Soros tổ tiên gốc Do Thái nhưng ra đời tại Hungary năm 1930 với tên Schwartz. Sáu năm sau, ông đổi tên thành Soros nhằm tránh họa diệt chủng phát xít. Điều đặc biệt, theo quốc tế ngữ Esperanto, Soros khi đọc ngược đọc xuôi đều mang ý nghĩa “vút cao”. Năm 1947, ông sang Anh làm nhiều việc khác nhau để kiếm sống. 18 tuổi, Soros vào Học viện Kinh tế London nhờ vào số tiền làm thuê dành dụm được. Năm 1952, tốt nghiệp rồi thử việc tại công ty Singer & Friedlander, nhưng do “trái ngành nghề” ông liền sang phục vụ cho một công ty chứng khoán tại New York, Mỹ. Năm 1956, George Soros đến Mỹ chỉ với 5.000 USD nhưng với hoài bão trở thành nhà tài chính chuyên nghiệp. Mười ba năm sau, với 4 triệu USD, Soros lập quỹ Quantum. Chỉ sau một thập niên con số này đã là 300 triệu USD và sau đó cứ tăng dần, có giai đoạn đỉnh điểm lên đến 12 tỷ USD. Các quỹ của Soros luôn là những điều bí ẩn cho giới đầu tư. Một phần do nguyên tắc điều hành, một phần do sự cạnh tranh khốc liệt giữa các quỹ này.
Nguyên tắc đầu tư của Soros đa phần dựa vào trực quan, linh cảm của một con buôn. Nhiều người cho rằng, Soros luôn đi ngược đường và nghĩ khác với những quy tắc đầu tư, nhưng theo ông, những nơi nhạy cảm, bất ổn chính là nhưng nơi sinh lợi nhiều nhất. Các sự kiện đầu cơ của Soros luôn để lại nhiều cảm xúc khác nhau trong giới tài chính thế giới. Với những người thất bại dưới tay Soros, ông bị xem là tên phá bĩnh, là kẻ thù. Nhưng, với những người và những nơi được ông giúp đỡ, ông là một thiên tài kinh bang tế thế. Quỹ Soros hiện có mặt ở 27 quốc gia châu Phi và 32 quốc gia khác trên thế giới. Nay, ở tuổi 79, trong khi không ngừng tìm kiếm những cơ hội đầu tư kiểu mới, Soros tập trung nhiều hơn vào từ thiện, giáo dục ngành tài chính, truyền đạt kinh nghiệm làm ăn cho các thế hệ trẻ. Dù bên ngoài, dư luận luôn cho rằng George Soros là nhà đầu tư mạo hiểm, ngược đời và thiên nhiều về cảm tính. Song, thực sự để có được vị trí trong danh sách những người giàu nhất thế giới trong hơn 10 năm liền, nhân vật làm từ thiện nhiều nhất trong thế kỷ 20, Soros không chỉ vận động một mình. Công ty quản lý quỹ Soros Fund Management (SFM) ở đại lộ số 7, New York, Mỹ là tập hợp của nhiều chuyên gia, với hơn 100 con người. Lực lượng này do chính tay Soros tuyển chọn. Vị tướng lãnh điều hành ê-kíp chất xám này lại là một cái tên khác, Nick Roditi.
Nick Roditi, vị lãnh chúa giấu mặt
Theo tạp chí Thế giới Tài chính, Mỹ, Nick Roditi được xem là người giữ tiền cho George Soros. Từ sau một phi vụ kiếm được 80 triệu bảng Anh năm 1996, Nick Roditi chính là nhân viên được trả lương cao nhất nước Mỹ. Năm 2008 quỹ Quantum của các nhánh khác giảm trung bình 1,5% thì quỹ trong tay Nick Roditi tăng đột biến đến 85%. Chính “cái đầu lạnh” của Nick Roditi đã mang về các món hời cho SFM và cho chính ông khiến giới tài chính phố Wall xanh xám mặt mày. Nick Roditi luôn được nhìn là người đàn ông trung niên tài ba, giàu có, tóc hoa râm với thu nhập 1,5 triệu bảng Anh/tuần. Kín tiếng, biệt lập, nhưng siêu năng động, sống âm thầm ở London đấy nhưng sẽ có mặt ở bất cứ đâu lúc cần. Con số 5.000 quỹ Hedge Fund trên khắp thế giới, 80% tập trung ở Mỹ và Anh chỉ một tay Nick mà cũng vận hành trơn tru.
Vừa hoàn tất chương trình học tại Rhodesia, Nick tham gia ngành luật ở Nam Phi, sau đó chuyển về theo mảng kinh doanh tại đại học London, Anh. Năm 1969, Nick thực tập tại ngân hàng thương mại Schroders. Từ đây cuộc đời Nick đã bước sang một bước ngoặt khác: quản lý tiền cho Soros. Nick chính thức bắt đầu sự nghiệp đầu tư của mình với tư cách là nhà phân tích tại J. Henry Schroder Wagg & Co. Ltd. Năm 1970 ông sang Nhật nghiên cứu thị trường chứng khoán tại đây. Năm 1977, ông cùng một đối tác lập văn phòng đại diện của Schroder Group ở Seoul, Hàn Quốc. Được hai năm Roditi trở thành đại diện của Schroder Group tại Nhật Bản trước khi trở về London, cùng thành lập Công ty Chứng khoán Schroder rồi trở thành Giám đốc J.Rothschild Holdings PLC, chủ yếu quản lý quỹ đầu tư tập trung vào Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ năm 1992-2001, Nick làm “cố vấn ngoài” cho Quỹ Quota Fund NV, một trong số các quỹ của Soros. Từ đó, Nick cũng được ủy thác quản lý luôn Bảo tàng tài chính Mỹ ở New York.
Kể rành rọt là thế nhưng đầu óc kinh tài phù thủy như Nick đời nào chịu “chỉ đâu đánh đó”. Ông còn vươn vòi đầu tư khá nhiều khoản bên ngoài SFM. Nick hiện đang là giám đốc của một số công ty ngoài khơi ở Jersey, Bermuda và quần đảo Cayman, kể cả Ripley Engingeering và Plantation & General ở Basingstoke. Một bài viết năm 2004 trên tờ Telegraph, Anh, từng nhận định, các nhà quản lý quỹ tài chánh đều có những kỹ năng đặc biệt, từ bất thường đến phi thường. Họ có thể trở thành những ngôi sao chói sáng trên thị trường tài chính chỉ sau 15 phút. Nhưng cũng có thể sau ngần ấy thời gian, con đường và sự nghiệp họ cũng sẽ tắt lịm. Những ngôi sao phố Wall một thời như Anthony Bolton của Quỹ Fidelity, Philip Gibbs của Jupiter Split Trust, James Barstow của Aurora, Max Ward của Independent Investment Trust nay đã lặng tiếng. Chỉ riêng Nick Roditi của SFM vẫn sáng một cách lạ lùng với độ chói ấn tượng giữa nền kinh tài thế giới. Mạo hiểm nhưng trung thành, đó là hai bí quyết chủ lực để Roditi làm thuê mà vẫn giàu, lệ thuộc mà vẫn độc lập.
Khi guồng chứng khoán thế giới quay theo triều xoắn ốc lên đến cao trào cực thịnh, Nick Roditi mang danh nhà đại tài phiệt âm thầm, kẻ thế lực số một trong con mắt chuyên gia phố Wall, nhưng vẫn là một tay nhà giàu bình thường với đại đa số dân chúng. Cũng bởi ông không quá phô trương trong cuộc sống hàng ngày. Nick gần như sống khép kín ở Hamstead, "cưỡi" một chiếc Volvo cũ, thường dùng bữa trưa với yaourt và bàn chuyện phiếm không liên quan đến đồng tiền. Nick Roditi còn sở thích sưu tập đồ cổ, thảm Ba Tư, tủ cẩn xà cừ phong thái Hàn Quốc. Bên ngoài trông ông thong dong tựa một gã chỉ biết “cưỡi ngựa xem hoa” trong lĩnh vực tiền tệ, nhưng thực tế những “canh bạc” của Nick luôn mang về nguồn lợi nhuận gấp nhiều lần cho cả bản thân lẫn SFM.
|
|
Dacid Ricardo: Đầu cơ để làm cách mạng
Bất cứ ai nghiên cứu kinh tế học đều không thể không biết đến David Ricardo. Thế nhưng, không phải ai cũng biết ông đã từng là một nhà đầu cơ chứng khoán xuất chúng.
Cùng với Adam Smith, David Ricardo được coi là một trong hai nhà kinh tế học kinh điển vĩ đại nhất ở thời trước Karl Marx. Nếu như Adam Smith đã phát hiện ra được “bàn tay vô hình của thị trường” thì David Ricardo lần đầu tiên đưa ra khái niệm “lợi thế so sánh về chi phí”, xây dựng nên “mô hình ngoại thương” và trường phái “chủ nghĩa tiền tệ” cũng như đặt nền móng lý thuyết cần thiết cho tự do hóa mậu dịch trong khuôn khổ quốc gia cũng như trên bình diện toàn cầu. Sự nổi tiếng của Ricardo trên lĩnh vực nghiên cứu chính trị kinh tế học và kinh tế đã làm lu mờ một thực tế là, trước khi sáng tạo ra những tác phẩm để đời như vậy ông đã đến với đầu cơ chứng khoán khi mới 14 tuổi. Chỉ 11 năm sau ông đã là một nhà đầu cơ chứng khoán rất thành công, trở thành một trong những người giàu có nhất ở nước Anh đương thời và không cần phải tiếp tục đầu cơ nữa. Sự tiếp xúc với chính trị kinh tế học và thức dậy niềm đam mê nghiên cứu chỉ là tình cờ đối với Ricardo, nhưng nếu không giàu có nhờ đầu cơ thì Ricardo đâu có được thời gian và tâm trí cần phải có để làm nên cuộc cách mạng trong chính trị kinh tế học thời ấy. Suốt cuộc đời mình, David Ricardo gần như không theo học bất kỳ trường lớp chính quy nào.
Dòng họ Ricardo có gốc do thái ở Bồ Đào Nha. Vào thế kỷ 17 họ di tản sang Italia, Hà Lan và rồi trụ lại ở Anh. Bố ông kinh doanh chứng khoán rất thành đạt ở Amsterdam và từ năm 1760 ở London. David Ricardo sinh ngày 19 - 4 - 1772 và được cha dẫn dắt vào thế giới buôn bán chứng khoán ngay từ khi mới 14 tuổi. Tuy là con thứ 3 trong tổng số 17 anh em, nhưng nhờ vào năng khiếu kinh doanh bẩm sinh mà chỉ vài năm sau David Ricardo đã được giao trọng trách quản lý toàn bộ công ty của gia đình. Nếu như việc tiếp cận với chứng khoán ngay từ khi còn nhỏ là bước ngoặt quyết định đối với cuộc đời Ricardo thì việc đoạn tình với cả tứ thân phụ mẫu vào năm 1793 là bước ngoặt quyết định thứ hai của ông. Anh chàng David 21 tuổi chấp nhận bị bố mẹ đẻ đuổi ra khỏi nhà, đoạn tuyệt tình cha con, và chấp nhận cả sự ghẻ lạnh của bố mẹ vợ tương lai chỉ để có thể kết hôn được với người mình yêu. Không được học hành và với hai bàn tay trắng, Ricardo chỉ có năng khiếu và kinh nghiệm 7 năm kinh doanh chứng khoán. Vì thế, sự lựa chọn duy nhất và cũng là thông minh nhất của ông là thành lập công ty chứng khoán riêng.
Thời đó, trên sàn giao dịch chứng khoán London có hai loại hình kinh doanh chứng khoán: loại buôn bán chứng khoán theo yêu cầu và ủy thác của khách hàng (stock broker) và loại tự doanh (stock jobber). Ngày ấy, buôn bán cổ phiếu bị luật pháp nước Anh hạn chế nghiêm ngặt cho nên đa phần chứng khoán được giao dịch trên thị trường chứng khoán là trái phiếu chính phủ.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu có thể lý giải thành công của David Ricardo trong đầu cơ chứng khoán ở Anh với 3 nguyên nhân sau.
Thứ nhất, nhân tố con người. Ricardo hoặc phải có năng khiếu bẩm sinh trong kinh doanh chứng khoán hoặc đã gặp rất nhiều may mắn trong kinh doanh hoặc đã trưởng thành vượt bậc trong 7 năm hành nghề cùng với cha mình. Một trong những nhận xét rất tinh tế của Ricardo từ quá trình theo dõi diễn biến thị trường và nghiên cứu tâm lý khách hàng là ông nhận thấy con người thường đánh giá quá cao ý nghĩa và tác động của những sự kiện, vụ việc ngắn hạn. Cho nên trong các quyết định đầu tư hay đầu cơ của mình, Ricardo luôn để ý tới những tác động lâu dài của các sự kiện chính trị, kinh tế và quân sự, tìm cách đi trước sự kiện chứ không chạy theo sự kiện.
Thứ hai, nhân tố thời thế. Thời Ricardo là thời chiến tranh giữa nước Pháp của Napoleon và nước Anh do Thủ tướng William Pitt trị vì. Những hậu quả về tài chính đối với nước Anh thật tai hại và một nửa nhu cầu tài chính cho cuộc chiến tranh của nước Anh chống lại nước Pháp được thủ tướng Pitt đáp ứng bằng vay nợ thông qua phát hành trái phiếu chính phủ vô thời hạn mà lại với lãi suất cố định là 3%, có nghĩa là chỉ khi nào nhà nước mua lại trái phiếu thì khi đó người mua trái phiếu mới được thanh toán lại tiền. Vì thế, trái phiếu này trở thành món hàng kinh doanh và đầu cơ rất được ưa chuộng mà khi đó chính phủ chỉ dành cho các ngân hàng có tên tuổi. Chiến lược của Ricardo là gây dựng uy tín cá nhân và tập hợp lực lượng để trở thành một tổ hợp tài chính, đầu tư và đầu cơ có thể cạnh tranh được với các ngân hàng để giành được loại chứng khoán béo bở này.
Thứ ba, nhân tố cơ hội. Cơ hội đã đến với Ricardo vào năm 1807. Lần đầu tiên chính phủ Anh ủy thác cho tổ hợp của Ricardo - không phải ngân hàng có tên tuổi - bán trái phiếu ra thị trường. Sự kiện này đã biến nhà đầu cơ chứng khoán David Ricardo trở thành một ông chủ ngân hàng đầu tư. Phi vụ trước trót lọt mở đường cho phi vụ sau và lợi tức Ricardo thu về được từ đầu cơ trái phiếu chính phủ khi thấp nhất cũng là 3,8%, cao là ở mức 6,3%. Năm 1815, khi rời bỏ thị trường, Ricardo đã tích lũy được 700.000 Bảng Anh – một khoản tiền khổng lồ vào thời đó. Với số tiền kiếm được từ đầu cơ chứng khoán, Ricardo chuyển sang đầu cơ bất động sản, kinh doanh đất đai, dinh thự, điền trang và lâu đài, trong đó có cả khu Gatcome Park mà sau này bán lại cho Hoàng gia, hiện nay là nơi ở của Công chúa Anne, con gái của Nữ hoàng Anh Elizabeth Đệ Nhị.
Dù vậy, hậu thế ngày nay mỗi khi nói đến David Ricardo lại thường chỉ quan tâm đến những tư tưởng của ông về kinh tế và chính trị kinh tế học. Năm 1799, do tình cờ mà ông đọc được cuốn sách nổi tiếng “Sự thịnh vượng của các quốc gia” của Adam Smith và để tâm đến chính trị kinh tế học từ đó. Rất có thể ông đã phát hiện ra đam mê mới để khi có đủ điều kiện vật chất thì chấm dứt hoạt động đầu cơ và chuyên tâm vào nghiên cứu kinh tế, chính trị kinh tế học.
Hậu thế xếp ông vào diện những người tiên phong ủng hộ mậu dịch tự do và chủ nghĩa tiền tệ, chống bảo hộ mậu dịch và nhà nước tăng vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Những nguyên lý của chính trị kinh tế học và đánh thuế” công bố năm 1817. Nhưng cả những bài viết trước và sau đó của ông đều bao hàm nhiều ý tưởng vĩ mô và đều được vận dụng ở các thời sau. Những phát kiến của ông được coi như một cuộc cách mạng thực sự về chính trị kinh tế học và quản lý kinh tế vĩ mô. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, Karl Marx đánh giá rất cao những công trình nghiên cứu của David Ricardo, đặc biệt liên quan đến quá trình làm ra và tăng giá trị trong nền sản xuất tư sản. Không ít chính trị gia và học giả ngày nay vẫn viện dẫn Ricardo để lập luận cho những quan điểm hay quyết định chính sách của mình. Ricardo mất năm 1823 vì bệnh ở tuổi 51. Những công trình nghiên cứu đem lại cho ông danh tiếng của một nhà lý luận kinh tế học kinh điển vĩ đại nhất trước Karl Marx và một nhà cách mạng.
|
|
Nhà đầu cơ Do Thái trứ danh: Dùng tiền lật ngược thế cờ
Samuel Oppennheimer đầu cơ không chỉ để thêm giàu có, mà để thay đổi thân phận của người do thái trong lãnh thổ của Đế chế Áo - Hung
Những cuộc chiến tranh giữa đế chế Osman của Thổ Nhĩ Kỳ và đế chế Áo - Hung trong thế kỷ 17 và 18 cũng còn là cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Sau không ít thất bại và nhiều khốn đốn, quân đội Áo - Hung và đồng minh đã giải vây được cho thành Viên, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc chiến chống sự xâm lăng, bảo vệ Châu Âu trước sự lan tỏa của Đạo Hồi và mở đầu cho sự tan vỡ của đế chế Osman. Về sau, đế chế Áo - Hung cũng sụp đổ và hậu thế chỉ nhờ sử sách để biết được rằng có một người do thái đã đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến này. Không có ông, quân đội Áo - Hung không còn là đối thủ của quân đội Osman.
Tận dụng đồng tiền
Dòng họ Oppenheimer sinh sống ở Đức và rất thành đạt trong kinh doanh. Thời đó, những thương gia thành đạt nhất và giàu có nhất thường là người do thái. Samuel Oppenheimer sinh ngày 21 - 6 - 1630 trong một gia đình như thế. Thời ấy ở khắp Châu Âu, các vương triều và giới quý tộc phong kiến đều là những con nợ lớn do nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống xa hoa và xây dựng cung điện, lâu đài, vui chơi quá lớn. Tầng lớp thương nhân do thái thường được hoàng gia và giới quý tộc cầu cạnh vì là các chủ nợ dễ bảo, lại vừa bị ghanh ghét vì thành đạt trong kinh doanh và giàu có. Samuel Oppenheimer là một trong số dó.
Phương pháp kinh doanh và đầu cơ của Oppenheimer rất đơn giản và hiệu quả: cho các vương triều vay tiền với lãi suất cao (từ 12 - 20%) và rồi sử dụng chính cái danh chủ nợ ấy để kinh doanh. Nhưng phi vụ đầu cơ lớn nhất và nổi tiếng nhất của Oppenheimer lại không phải ở nước Đức, mà ở Áo, với mục đích đầu cơ không chỉ để thêm giàu có, mà để làm thay đổi thân phận của người do thái trong lãnh thổ của Đế chế Áo - Hung.
Chiến lược của Oppennheimer là đề tài chính của triều đình phụ thuộc vào mình
Ngày nay, mỗi khi đề cập đến việc bài xích người do thái, thiên hạ thường nghĩ tới thời kỳ chủ nghĩa phát xít cầm quyền ở nước Đức và tới cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai. Nhưng thật ra thì trước đó từ rất lâu, người do thái ở Châu Âu đã bị bài xích. Năm 1670, theo ý muốn của Hoàng hậu Margarita, Hoàng đế Áo - Hung Leopold Đệ Nhất đã quyết định đuổi tất cả người do thái ra khỏi khu vực lãnh thổ đế chế của mình. Mấy năm sau, Samuel Oppenheimer, lúc đó đã trở thành ông chủ ngân hàng thành đạt và nổi tiếng, mạo hiểm đến Viên để đòi nợ sau khi làm việc đó từ nước Đức không thành bởi quyết định đuổi người do thái cũng còn đồng thời là quyết định rũ bỏ mọi trách nhiệm trả nợ cho các chủ nợ người do thái. Oppenheimer bị bắt và tống giam ngay, chờ ngày ra pháp trường mà không được xét xử. Vào thời điểm đó, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã vây ép sát thành Viên và chuyện công thành chỉ là vấn đề thời gian. Tình thế của quân đội Áo - Hung vô cùng khốn khó vì thiếu lương thực và vũ khí, không được đảm bảo hậu cần chu đáo và không thấy triển vọng tình trạng đó sớm được cải thiện. Ngân quỹ của triều đình lại trống rỗng và dẫu triều đình có ép thì cũng chẳng có chủ nợ nào có đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu tài chính của triều đình và cuộc chiến tranh. Các thương nhân do thái trở thành cứu cánh duy nhất. Họ bị tước bỏ hết các quyền nhưng lại có tiền. Họ không có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng lại có tài trong tổ chức kinh doanh. Họ tuy bị ngược đãi và phân biệt đối xử nhưng vẫn muốn có tước vị và sự công nhận để thay đổi thân phận cho chính mình và các thế hệ sau bởi không phải ai cũng có ý định di cư sang châu lục khác.
Trong bối cảnh ấy và theo đề nghị của Hoàng tử Eugen, Samuel Oppenheimer được thả và được giới thiệu với Hoàng đế Leopold Đệ Nhất. Vị hoàng đế này không ưa gì người do thái nhưng không có sự lựa chọn nào khác ngoài phải ủy thác cho Oppenheimer toàn quyền giải quyết việc cung ứng cho quân đội đang chiến đấu ở ngoại ô thành Viên.
Samuel Oppenheimer nhận lời vì đó trước hết là cơ hội thoát chết, nhưng đồng thời còn là canh bạc cuộc đời: nếu thắng thì sẽ được đổi phận cho chính mình và cho cộng đồng người do thái. Bí quyết thành công của Oppenheimer trong phi vụ này là đã đánh giá đúng khả năng của chính mình và thực trạng tài chính của triều đình. Oppenheimer biết rằng triều đình không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải dựa vào khả năng kinh doanh và tiềm lực tài chính của người do thái. Bởi thế, điểm mấu chốt quyết định nhất trong chiến lược của Oppenheimer là phải làm sao để toàn bộ nền tài chính của triều đình phụ thuộc vào mình. Đó là năm 1683.
Kết cục bất hạnh
Các sử gia sau này đánh giá khác nhau về cách làm của Oppenheimer. Người thì cho rằng đó là đầu cơ chính trị, kẻ lại coi đó là lũng đoạn về tài chính. Nhưng, điều họ luôn nhất trí với nhau là quyết tâm của Oppenheimer giúp quân đội Áo - Hung chiến thắng vì chỉ chiến thắng mới đưa lại bằng chứng về khả năng và công lao của người do thái. Sau khi có được danh chính ngôn thuận, Oppenheimer tổ chức một mạng lưới về nhân sự và cơ sở trong khắp đế chế để thu mua và vận chuyển lương thực, vũ khí và quân trang, vận chuyển quân đội và hệ thống kho tàng hậu cần. Oppenheimer cũng thiết lập mạng lưới thông tin tình báo ở khắp nơi, kể cả trong quân đội và triều đình, để chủ động đối phó trong mọi tình huống và trên mọi mặt trận.
Phần lớn số tiền mà Oppenheimer sử dụng đến để trợ giúp cho triều đình đều là đi vay, mà là cá nhân đi vay, với cam kết sẽ trả lại đủ sau khi chiến tranh kết thúc. Con tính của Oppenheimer là một khi thắng trận thì đế chế Osman sẽ phải bồi hoàn và cống nạp, khi đó triều đình sẽ hoàn trả những gì đã nợ Oppenheimer, kể cả vốn lẫn lãi. Còn nếu thất bại thì cùng lắm cũng chỉ lại vào tù chờ ngày bị hành quyết như trước. Những gì mà Oppenheimer nhân danh triều đình đi vay nợ - mà đúng hơn là triều đình nợ Oppenheimer - là khoản tiền lớn nhất trong ngân sách của triều đình và lãi suất cũng cao nhất, thậm chí tới 20%. Sau chiến tranh, triều đình nợ Oppenheimer tổng cộng hơn 6 triệu Gulden. Đó là năm 1697. Triều đình Áo - Hung đẩy lui được cuộc xâm lăng của đế chế Osman, nhưng cái giá phải trả không chỉ là sự lệ thuộc về tài chính vào Oppenheimer, mà còn là sự hiện diện trở lại của người do thái.
Hoàng đế Leopold Đệ Nhất tìm mọi cách để phá vỡ vị thế độc quyền của Oppenheimer nhưng không thành công, kể cả tống giam Oppenheimer thêm 2 lần nữa. Trong phi vụ đầu cơ này, Oppenheimer đã thành công trong mọi con tính và cuộc đấu trí với Hoàng đế Leopold Đệ Nhất.
Nhưng cuộc trả thù của triều đình lại diễn ra sau khi Samuel Oppenheimer qua đời ngày 3/5/1703 ở Viên. Để tránh phải trả nợ, triều đình buộc gia đình Oppenheimer tuyên bố phá sản. Do Oppenheimer toàn sử dụng tiền của kẻ khác để phục vụ cho triều đình nên sự phá sản này gây nên khủng hoảng thực sự đối với nền tài chính của triều đình và ở các trung tâm tài chính khác, từ Frankfurt đến London, từ Paris đến Roma. Không nơi nào sẵn sàng cho triều đình vay mà chỉ sẵn sàng cho Oppenheimer vay tiền. Không có ai trong triều hiểu cặn kẽ, biết tường tận cung cách kinh doanh và bí quyết đầu cơ của Oppenheimer. Những người con trai của Oppenheimer lại được trọng dụng để cứu vãn nền tài chính, nhưng cuộc trả thù của triều đình đã làm gia đình Oppenheimer lụn bại mà phải bao nhiêu năm sau, mới gượng dậy nổi.
Samuel Oppenheimer đã chiến thắng trong phi vụ đầu cơ đổi đời này nhưng số phận riêng lại đen đủi, là người có công lớn mà rồi nhanh chóng bị quên lãng. Ngày nay, tại nghĩa trang Rossau ở Viên, tấm bia mộ đơn giản trên ngôi mộ của Oppenheimer không nói lên được gì về những chuyện xảy ra mấy trăm năm trước. Bi kịch chính ở chỗ ông là người do thái, lại sống ở thời và nơi người do thái bị bài xích.
|
|
John Meriwether đã tham, lại liều
Trong thế giới đầu cơ John Meriwether thường được đưa ra làm ví dụ chứng minh cho lời răn “leo càng cao, ngã càng đau”. Nhà đầu cơ này được coi là hiện thận của sự tham lam và liều lĩnh.
Quỹ phòng ngừa rủi ro (Hegde Fund) vốn là công cụ đầu cơ được nhiều nhà đầu cơ ưa thích. John Meriwether cũng vậy. Cái khác ở nhà đầu cơ này chỉ là cách sử dụng. Đối với Meriwether, quỹ bảo lãnh đầu tư chỉ có chức năng và giá trị duy nhất là giúp huy động được vốn của kẻ khác một cách hợp pháp.
Cùng công cụ, khác cách dùng
Meriwether sinh ra trong gia đình không nghèo ở Mỹ, nhưng cũng chẳng phải thuộc diện giàu sang. Theo học ở những trường đại học có tên tuổi ở Mỹ, nhưng bản thân ông ta cũng không có tiền để đầu cơ mà phải tính kế dùng tiền của người khác theo kiểu “tay không bắt giặc”.
Ba lần khởi hành chinh phục thế giới đầu cơ, cả ba lần ông ta đều thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro: Long-Term Capital Management (LTCM) năm 1994, JWM Partners năm 1999 và JW Advisors năm 2010. Ngay từ đầu và kể cả sau hai lần thất bại cay đắng, Meriwether đều chỉ đánh bạc may rủi và đều chỉ muốn làm chơi ăn thật! Tung hoành ngang dọc trên thị trường tài chính thế giới thật đấy, nhưng mọi quỹ phòng ngừa rủi ro của Meriwether đều được đăng ký chính thức ở “những thiên đường trốn thuế” như đảo Cayman, nơi thuế lợi tức thấp và kiểm soát tài chính lỏng lẻo.
Mặc dù vậy, thời điểm hoàng kim, LTCM của Meriwether là quỹ phòng ngừa rủi ro lớn nhất thế giới: năm 1998, LTCM huy động được 4,7 tỷ USD tiền gửi và vay thêm được 120 tỷ USD. Tổng giá trị của tất cả các loại chứng khoán, công cụ và sản phẩm tài chính có liên quan đến LTCM lên tới 1500 tỷ USD - lớn hơn cả GDP của Áo hay Tây Ban Nha. John Meriwether thành công với LTCM tới mức được tạp chí Forbes gắn cho cái tên “Archimedes”, còn tạp chí Business Week gọi ông là “siêu nhân trong kinh doanh chứng khoán”.
Bí quyết thành công của Meriwether trước hết là tài thuyết phục được người có tiền nhàn rỗi và ham được lợi tức cao tin vào chiến lược đầu cơ của mình. (Con người dù khôn ngoan và tỉnh táo đến mấy, dù đã nếm trải biết bao kinh nghiệm thành công và thất bại, đã được bao lần cảnh báo và nhắc nhở vẫn rất dễ bị xiêu lòng trước những viễn cảnh đẹp và lời đường mật, cam kết và hứa hẹn của những kẻ không có tiền nhưng lại không thiếu tham vọng như Meriwether!). Nhưng cũng còn có một nhân tố khác nữa khiến người ngoài dễ bị Meriwether thuyết phục là ông ta đã thành công trong việc lôi kéo được rất nhiều nhà kinh doanh chứng khoán tài ba, nhiều giáo sư đại học và nhà khoa học nổi danh trên lĩnh vực khoa học tài chính cũng như nhiều chuyên gia tiền tệ về làm việc cho mình. Câu chuyện ngụ ngôn “cáo mượn oai hùm” đã chứng tỏ sự thâm thúy của nó ngay trên thương trường.
Trong số “hùm” ấy, đáng kể nhất là Myrton Scholes và Robert Merton. Hai nhà kinh tế học này được trao Giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế năm 1997 về một phương trình và công thức dùng để phân tích và dự báo biến động trên thị trường tài chính. Meriwether sử dụng chính công thức ấy làm triết lý và sự đảm bảo đầu cơ. Trong thế giới đầu cơ cho tới nay chưa có nhà đầu cơ nào sùng bái toán học để thực hiện các hoạt động đầu cơ của mình như Meriwether. Công thức ấy giúp Meriwether thành công, nhưng cũng làm ông ta lụn bại.
Scholes và Merton cùng nhau tìm ra được một công thức biểu hiện sự biến động về giá giữa hai loại chứng khoán khác nhau. Nếu như có được một chương trình máy tính theo dõi những biến động đó và phát hiện ra rằng chúng khác biệt so với bình thường thì có nghĩa là đã xuất hiện một trạng thái mới, nhưng sẽ không mãi như vậy, vì đến một lúc nào đó chúng sẽ lại phải trở về trạng thái cũ. Đúng vào lúc ấy, nếu biết cách đầu cơ thì sẽ lãi lớn. Đó chính là cách tư duy, suy tính và gốc rễ sâu xa của mọi quyết định đầu cơ của Meriwether. Meriwether không đầu cơ vào cổ phiếu, mà vào các loại chứng khoán được cấu trúc rất phức tạp trên thị trường tài chính. Ông ta đầu cơ vào sự biến động bất bình thường của mối quan hệ về giá của hai loại chứng khoán khác nhau. Meriwether thành công với LTCM suốt bốn năm trời chỉ nhờ cách thức đầu cơ ấy.
Giải phẫu thất bại
Cuối năm 1998, đồng Rúp của Nga bị phá giá và Chính phủ Nga buộc phải hoãn trả nợ. Thị trường chứng khoán thế giới trở nên hỗn loạn và chẳng còn theo bất cứ quy luật nào, bởi trước hết, nhân tố tâm lý và hiệu ứng đầu cơ từ đó cũng… chẳng theo bất cứ quy luật nào!
Nếu như không có động đất và giông tố trên thị trường tài chính thế giới thì tượng đài mà Meriwether tự xây dựng cho mình có thể đã không bị đổ vỡ
Và thế là tất cả những mô hình tính toán của LTCM đều mất tác dụng, thậm chí còn phản tác dụng. Quá tin vào công thức toán học, Meriwether và LTCM xuống dốc không phanh, chỉ riêng trong mấy tháng cuối năm 1998 đã bị mất trắng hơn 3 tỷ USD. Khi đó, với quy mô vốn và vay của LCTM, quỹ bảo lãnh đầu tư này đã ăn sâu bén rễ vào thị trường tài chính thế giới đến mức sự sụp đổ của nó sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống. Cho nên Cục Dự trữ liên bang Mỹ và một loạt ngân hàng lớn khác ở Mỹ và châu Âu đã phải bỏ ra hơn 3,6 tỷ USD để khắc phục hậu quả của việc LTCM bị phá sản. Chỉ đến khi đó, người ngoài mới có được đầy đủ thông tin về mức độ liều lĩnh trong các hoạt động đầu cơ của Meriwether: số vốn thật của LTCM rất nhỏ so với số nợ và không cần phải chờ đến khủng hoảng mà vào bất kỳ thời điểm nào trong thời gian tồn tại của quỹ này những thành quả đầu cơ của Meriwether cũng không bao giờ đủ để trả nợ. Vậy mà chỉ một năm sau, Meriwether lại thành lập ra một quỹ mới là JWM Partners. Bình mới đựng rượu cũ. Tất cả vẫn như xưa, từ triết lý đầu cơ đến phương cách thực hiện, từ cái vỏ bên ngoài đến tổ chức bộ máy nhân sự ở bên trong. Bi kịch của Meriwether có lẽ ở chỗ tham quá và liều quá. Đầu năm 2008, Meriwether tập trung đầu cơ vào trái phiếu chính phủ của Nhật thì cuối năm đó bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. JMW Partners kết thúc không khác gì LTCM đã kết thúc.
Đam mê đầu cơ, cuồng vọng làm giàu và bản chất liều lĩnh ở con người này lớn đến mức không chịu dừng bước. Năm 2010, Meriwether thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro mới là JM Advisors, vẫn bình mới rượu cũ như hai lần trước…
Thế giới đầu cơ về sau đã tổng kết 5 nguyên nhân thất bại của Meriwether để cảnh tỉnh hậu bối. Đó là quá tin tưởng vào kết quả phân tích kỹ thuật và không để ý thỏa đáng đến những nhân tố khác như chính trị và tâm lý; là bỏ qua những nguyên tắc sơ đẳng nhất về thận trọng trong đầu cơ; là lừa cả khách hàng, bạn hàng lẫn cơ quan kiểm soát ngân hàng và chứng khoán; là không có chiến lược kiểm soát rủi ro đầu cơ và không biết điểm dừng. Thế nhưng trong thế giới đầu cơ có không ít kẻ cho rằng Meriwether được coi là “nhà đầu cơ trứ danh” bởi chính 5 sai lầm đó!
|
|
George Soros: Thiên tài hay tội nhân?
Trong thế giới đầu cơ có một cư dân kiếm được nhiều tiền và rất nhanh nhờ đầu cơ, lại không hề giấu diếm bí quyết đầu cơ và dùng rất nhiều tiền có được từ đầu cơ để làm chính trị. Cư dân này tự tin đến mức dám tuyên bố công khai rằng: “Tôi có thể làm thay đổi thế giới”. Người đó là George Soros. George Soros là một trong những nhà đầu cơ có được nhiều biệt danh phụ nhất, thậm chí còn được coi là “nguyên thủ quốc gia không có quốc gia”. Về mọi phương diện, con người này đều có những cá tính rất riêng. Là người Do Thái, sinh năm 1930 ở Hungari, George Soros di cư sang Tây Âu năm 1946 và năm 1947 sang Anh, theo học Trường Đại học Khoa học chính trị và kinh tế London cho tới năm 1952 và sang Mỹ định cư từ năm 1956. Mấy dòng tiểu sử đơn giản ấy đủ để cho thấy hai nét đặc thù nhất xuyên suốt cả cuộc đời của nhà đầu cơ này là hoạt động kinh tế và chính trị, cụ thể hơn nữa là đầu cơ và dùng tiền có được từ đầu cơ để hậu thuẫn phe đối lập ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây cũng như tài trợ cho các hoạt động chính trị theo hướng xây dựng “xã hội mở” ở rất nhiều quốc gia khác trên thế giới sau này.
Chỉ qua một đêm trở thành huyền thoại
Mười hai năm đầu tiên ở nước Mỹ là thời kỳ học việc của George Soros, là thời kỳ Soros để tâm nghiên cứu kinh tế và theo dõi biến động thị trường để tìm ra những khe hở có thể lợi dụng được. Không có nhiều vốn liếng, Soros biết rằng không thể làm ăn lớn ngay được, không thể kiếm tiền nhanh ngay được, lại càng không thể có chuyện đầu tư lâu dài, cho dù đó là đầu tư vào công nghiệp hay dịch vụ, bất động sản hay chứng khoán. Đầu cơ không chỉ có sức lôi kéo quyến rũ. Soros đủ tri thức để hiểu rằng, muốn thành công thì cũng phải biết cách đầu cơ. Giải pháp của Soros rất đơn giản: không có vốn thì phải sử dụng vốn của kẻ khác; muốn kiếm tiền nhanh thì phải trốn thuế và phải liên danh với đối tác để giảm bớt rủi ro.
Cơ hội đến với George Soros năm 1968 khi ông gặp Jim Rogers. Công bằng mà nói thì gặp George Soros cũng là cơ hội đối với Jim Rogers. Cuộc hội ngộ này, không biết do tình cờ hay là chủ ý của số phận, đã mở đường cho cả hai về sau đều nổi danh trong thế giới đầu cơ. Cả hai thành lập ra cái gọi là Quỹ bảo lãnh đầu tư Quantum Funds để huy động vốn của kẻ khác và sử dụng số vốn đó để đầu tư, trả cho người góp vốn hoặc là lãi suất, hoặc là lợi tức từ các phi vụ đầu tư. Quỹ này được đăng ký tại Curacao, một hòn đảo ở ngoài khơi Venezuela, nơi được coi là một trong những thiên đường thuế thời đó mà các cơ quan kiểm soát tài chính và chứng khoán Mỹ không với tới được. Trong kinh doanh chứng khoán, việc sử dụng thông tin của người trong cuộc bị xử phạt rất nặng vì nó thường đem lại lợi nhuận rất lớn. Soros và Rogers đã xây dựng mạng lưới thông tin riêng để thu lượm và khai thác triệt để nguồn thông tin này. Cả hai giàu lên nhờ đầu cơ trên cơ sở ấy. Về sau, có người nói họ may mắn, nhưng cũng có kẻ đổ cho sự yếu kém của bộ máy quản lý và kiểm soát thị trường chứng khoán mà cả hai đều không bị phát hiện. Nhưng thời kỳ Soros và Rogers đường ai nấy đi mới là thời kỳ huy hoàng nhất của Soros.
Phi vụ đầu cơ nổi tiếng đầu tiên của Soros được thực hiện vào năm 1988. Ngày ấy, Soros vận hành liên hoàn giữa mua và bán cổ phiếu của ngân hàng Societe Generale, một ngân hàng lớn của Pháp, và kiếm được 2,2 triệu USD. Mãi đến năm 2006, một tòa án ở Pháp mới kết tội Soros sử dụng thông tin của người trong cuộc ở vụ đầu cơ này và đòi Soros phải hoàn trả tất cả lợi nhuận. Soros kháng án lên tận Tòa án Nhân quyền của châu Âu. Một phán xử như vậy vào năm 1988 đủ để hủy hoại toàn bộ sự nghiệp đầu cơ của Soros, nhưng lại chẳng làm được gì nhà đầu cơ này vào thời điểm năm 2006.
Nhưng nổi tiếng nhất là vụ đầu cơ đồng Bảng Anh mà lịch sử đầu cơ thế giới cũng như lịch sử tài chính thế giới gọi là “Ngày thứ Tư đen tối” - ngày 16/9/1992. Ngày ấy, Soros cho rằng đồng Bảng Anh được giữ ở tỷ giá quá cao và sẽ không thể trụ lại lâu ở mức độ đó. Soros dùng tất cả vốn liếng của mình và vay mượn bằng đồng Bảng Anh với hết khả năng của mình để bỏ ra mua về đồng Deutsche Mark và USD, khuấy động hẳn một làn sóng đầu cơ nhằm vào đồng Bảng Anh, đến mức khiến Ngân hàng Anh buộc phải phá giá đồng Bảng Anh và nước Anh buộc phải ra khỏi Hệ thống Tiền tệ châu Âu, còn Ngân hàng Anh thì phải trải qua quá trình cải tổ. Khi đồng Bảng Anh bị phá giá, Soros bỏ ngoại tệ kia ra mua lại Bảng Anh - đương nhiên với giá thấp hơn, thanh toán công nợ và thu về 1 tỷ USD chỉ sau có một đêm. Vụ đầu cơ này giúp Soros trở thành huyền thoại sống trong thế giới đầu cơ.
Năm 1993, mục tiêu tấn công của Soros là đồng Deutsche Mark của Đức, năm 1998 là đồng Rúp của Nga và năm 1999 là đồng Euro. Thời điểm 1997 - 1998, Soros nhằm vào đồng Baht của Thái Lan và vì thế bị coi là người đã gây ra cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á. Thủ tướng Malaysia Mahathir thời đó đã công khai đổ trách nhiệm cho Soros, cho dù chẳng ai có thể chứng minh được rõ ràng và Soros bác bỏ hoàn toàn mọi trách nhiệm. Dù thế nào thì chúng cũng giúp Soros càng thêm nổi tiếng và được nể vì. Năm 2007, Soros trù đoán là kinh tế Mỹ còn suy thoái và nhận ra cơ hội đầu cơ tuyệt vời sau nhiều năm giải nghệ. Kết quả là chỉ một năm sau, Soros thu về được hơn 1 tỷ USD. Việc hậu thuẫn tài chính cho những lực lượng đối lập ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây được coi là phi vụ đầu cơ chính trị đáng kể nhất của Soros và giúp Soros có được ảnh hưởng không nhỏ ở các quốc gia Đông Âu sau chiến tranh lạnh.
Công khai bí quyết
George Soros là một trong số rất ít nhà đầu cơ dám công khai bí quyết đầu cơ của mình. Qua những sách, bài viết, tham luận và trả lời phỏng vấn, người ta đã tổng kết nên 24 bí quyết đầu cơ thành công của Soros, trong đó nổi bật nhất là bí quyết “dám liều, nhưng liều có mức độ và thận trọng cao nhất có thể”. Nghe thì thấy rất dễ và không ai có thể phản bác được, nhưng thực hiện cụ thể mới là cái khó. Soros thực hiện đầu cơ rất thành công bởi nhà đầu cơ này rất am hiểu thị trường, am hiểu đến mức có thể đoán biết được trước phần nào diễn biến của thị trường trong thời gian tới. “Tôi hiểu thị trường tốt hơn những người khác. Vì thế tôi kiếm được tiền. Vì thế tôi nhận biết được những lỗi của thị trường”, Soros vẫn thường nói như vậy mà không hề cho rằng mình đã quá tự tin hay tự cao tự đại.
Soros chuyên đầu cơ tiền tệ và vì thị trường tiền tệ chịu tác động rất lớn bởi chính sách của các chính phủ và các ngân hàng trung ương quốc gia nên Soros luôn đặt hoạt động đầu cơ của mình trong mối liên hệ với các diễn biến trên chính trường. Những dự đoán của Soros làm cơ sở cho quyết định đầu cơ được dựa trên cơ sở ấy và triết lý đầu cơ của Soros cũng được đặt trên cơ sở ấy: dùng đầu cơ để tác động tới chính sách khiến chính sách buộc phải được điều chỉnh sao cho có lợi nhất cho hoạt động đầu cơ. Không phải lần nào Soros cũng thành công với chiến lược đầu cơ này, nhưng cho tới nay Soros vẫn luôn thắng ở những trận cần phải thắng nhất và đáng phải thắng nhất.
Đương nhiên, nhà đầu cơ trứ danh nào chẳng có tố chất năng khiếu đầu cơ bẩm sinh. Năng khiếu ấy cùng với tri thức và kinh nghiệm có được theo thời gian và ở thời khắc quyết định được xúc tác bằng tính liều lĩnh có tính toán chính là những thứ đã giúp Soros trở thành nhân vật có một không hai trong thế giới đầu cơ. Chứ còn những hoạt động chính trị của Soros chẳng phải là chuyện hiếm ở các cư dân của thế giới đầu cơ.
|
|
Cú lừa thế kỷ” của Madoff
Mặc dù cho tới nay Citigroup và các đại gia ngân hàng khác của Mỹ vẫn chưa dính tới vụ scandal của Madoff nhưng đây sẽ là một ví dụ điển hình về sự đáng tiếc xảy ra đối với lĩnh vực tài chính Mỹ.
Ponzi Bernard Madoff bị cáo buộc với 11 tội danh trong gian lận chứng khoán, tổng hình phạt lên tới 150 năm tù giam Hiện nay những thua lỗ của tập đoàn Madoff vẫn đang được thanh tra. Tuy nhiên dù các công ty tài chính Mỹ tránh được tác động lớn của bi kịch này cũng sẽ không cứu vãn nổi danh tiếng đã bị đổ vỡ của họ. Tập đoàn chứng khoán đầu tư Bernard L. Madoff Investment Securities đã chính thức sụp đổ từ ngày thứ 5 (11/12) khi Madoff - nhà sáng lập ra công ty giao dịch môi giới này - bị bắt giữ với tội danh tẩu tán 50 tỷ USD của các nhà đầu tư bằng một kế hoạch hình tháp hoạt động lâu dài. Sự sụp đổ của công ty Madoff đã cướp đi hàng nghìn khoản tiết kiệm của các nhà đầu tư.
Cho đến nay chưa có ngân hàng đầu tư lớn nào của Mỹ lên tiếng về những thiệt hại của họ do đầu tư vào công ty Madoff. Ngân hàng Mỹ (Bank of America) và Citigroup đã từ chối bình luận về khả năng thiệt hại do đầu tư vào Madoff. Và, JP Morgan cũng không trả lời ngay trước những kêu gọi làm rõ vụ scandal này.
Goldman Sachs đã không đề cập đến “tội danh nào của Madoff” khi thông báo mức thua lỗ tài chính quý IV với 2,1 tỷ USD. Các nhà đầu tư cũng đang chờ đợi xem liệu Morgan Stanley sẽ nói gì về các đầu tư liên quan đến Madoff khi thông báo kết quả quý IV của họ. Cổ phiếu của các ngân hàng đã sụt giảm giá trị đột ngột trong những ngày gần đây, điển hình JP Morgan với mức sụt giảm gần 8% theo chân của Merril Lynch. Rõ ràng rằng việc lật tẩy một “cú lừa ngoạn mục” trong thời điểm đầy khó khăn của các nhà đầu tư trong hàng thập kỷ nay đã không cứu vãn được niềm tin của các nhà đầu tư. Nhà kinh tế của Merri Lynch, ông David Rosenberg đã nhấn mạnh sự vụ của Madoff như một tác lớn đến niềm tin của các nhà đầu tư. Thua lỗ lớn nhất trong vụ này là do các công ty đầu cơ đã hướng các nhà đầu tư lớn tới công ty Madoff và một số ngân hàng nước ngoài lớn.
HSBC, ngân hàng lớn có trụ sở tại Anh cho biết họ có thể thua lỗ khoảng 1 tỷ USD trong vụ của Madoff. Liên quan đến “cú lừa” này còn có các ngân hàng BNP Paribas của Pháp và Royal Bank of Scotland. Và, Banco santander - ngân hàng Tây Ban Nha, tổ chức tài chính lớn nhất của khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu – cũng cho biết họ đã đầu tư 3 tỷ USD của khách hàng vào Madoff qua dịch vụ đầu tư tối ưu. Tuy nhiên nếu các con số tổng thua lỗ này chưa đủ để làm sợ hãi các tổ chức tài chính với tờ quyết toán trị giá lên tới hàng nghìn tỷ USD thì họ cũng sẽ không hành động được gì để lay chuyển những mối nghi ngờ rằng lĩnh vực tài chính đã thất bại nặng nề trong việc thực hiện nghĩa vụ định hướng cho khách hàng tránh khỏi những đầu tư có vấn đề.
Khi Madoff sụp đổ hàng loạt đợt sóng thủy triều của thị trường dâng lên làm cho các chỉ số chứng khoán trên toàn cầu đã mất điểm tới 40-50% thậm chí các nhà đầu tư đặc biệt mánh khóe cũng đã bị đánh gục.
|
|
Thủ phạm của “ngày thứ sáu đen tối”
Thứ sáu, ngày 14/9/1869 đã đi vào lịch sử nước Mỹ với cái tên “Ngày thứ Sáu đen tối” khi mà giá vàng ở Mỹ bắt đầu tụt giá thảm hại, kích hoạt một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế kinh hoàng nhất trong lịch sử nước Mỹ. James Fisk chính là một trong những thủ phạm chính của sự kiện này. James Fisk được coi là một trong những thủ phạm chính của sự kiện “Ngày thứ Sáu đen tối” tại Mỹ “Bá tước ăn cướp” là một trong những khái niệm đặc trưng cho thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa tư bản khi nền kinh tế chưa bị điều tiết hay kiểm soát gì, dành để ám chỉ những nhà tư bản kiếm lời, làm giàu bất chấp thủ đoạn, coi nền kinh tế chẳng khác gì một sòng bạc không giới hạn. Không ít những nhà đại tư bản hay đại công nghiệp sau này của nước Mỹ đã từng là bá tước ăn cướp - như John D. Rockefeller hay Cornelius Vanderbilt - và nhờ đó mới có thể trở thành những con người như vậy. James Fisk không chỉ đơn thuần là một trong số đó, mà còn là người thành công và tai tiếng hơn cả, vinh quang và cũng bi thảm hơn cả, để lại dấu ấn thiên thu không phai mờ trong lịch sử kinh tế nước Mỹ. Trong cuộc đời và sự nghiệp đầu cơ ngắn ngủi của mình, James Fisk thắng tất cả những trận đầu cơ lưu truyền hậu thế, nhưng lại thua trong canh bạc mà Fisk luôn cho rằng dễ chơi và dễ thắng nhất, nhưng rồi lại chứng tỏ là khó lường và nguy hiểm nhất, đó là tình yêu.
James Fisk theo học ở trường ít đến mức có thể coi như không đi học. Ngay từ rất nhỏ ông đã theo cha đi bán hàng lưu động, rồi tham gia một đoàn xiếc nhưng chẳng được bao lâu lại trở về hành nghề cùng cha và cũng chẳng bao lâu sau đó xây dựng gánh hàng của cha trở thành một công ty thực thụ và làm ăn phát đạt với 5 cỗ xe ngựa và cả tá nhân viên. Chính vì thế mà James lọt vào tầm ngắm của tập đoàn thương mại Jordan and Marsh đóng trụ sở ở thành phố Boston và được tập đoàn này tuyển dụng làm đại diện. Sự kiện này là dấu mốc trọng đại đầu tiên trong cuộc đời của James. Nó đã mở ra cánh cửa bước vào thế giới kinh doanh lớn và đầu cơ vốn vẫn luôn là tham vọng và sở trường của James.
Ngày 12/4/1861 là dấu mốc trọng đại thứ hai trong cuộc đời James, đó là ngày bùng nổ cuộc nội chiến ở Mỹ. James nhận ra được ngay cơ hội mà cuộc chiến tranh này đem lại cho mình. Nếu được coi là nhà cung ứng hậu cần cho quân đội thì không chỉ có thể kinh doanh kiếm lời từ những gì cung ứng cho quân đội vốn được ưu tiên hàng đầu, mà còn cả từ những gì quân đội có mà không cần đến nhưng bên ngoài lại khan hiếm. Hơn nữa, cái hỗn loạn của chiến tranh cũng như danh nghĩa cung ứng hậu cần cho quân đội là điều kiện tốt nhất để buôn lậu. James vận động, tranh thủ, lôi kéo, mua chuộc, hối lộ, gài bẫy và dọa ép gần như tất cả những nhân vật chủ chốt trong quân đội mà James tiếp cận được để giành lấy độc quyền ấy. Mua rẻ, bán đắt và buôn lậu chi phối hành động của James, chứ không phải mua của ai và bán cho ai. Cuộc nội chiến này đã giúp miền Bắc nước Mỹ đánh bại miền Nam và giúp James trở thành người giàu có cũng như tự tin đủ mức để bắt đầu cuộc chinh phục Phố Wall ở New York.
Những phi vụ đầu cơ ra mắt Phố Wall của James bị thất bại, trừ lần đầu cơ vào trái phiếu của những bang miền Nam trong thời gian rất ngắn sau nội chiến khiến James phải từ bỏ đầu cơ chứng khoán chuyển sang kinh doanh hàng dệt và may mặc. Nhưng công ty này của James bị phá sản sau đó không lâu. Kinh doanh thất bại, nhưng bài học có được từ đó lại đắt giá: đầu cơ chứng khoán mới là nơi James tung hoành, Phố Wall mới là đỉnh cao cần chinh phục. Đối với James, vấn đề không phải là tiền, mà là phiêu lưu mạo hiểm, cuộc chơi càng mạo hiểm thì lại càng hấp dẫn và càng đáng để chơi.
James trở lại Phố Wall và có được bước ngoặt tiếp theo của đời mình là gặp Daniel Drew, một doanh nhân cũng bất chấp thủ đoạn không kém gì James, nhưng cao tuổi hơn và lão luyện hơn trên thương trường. Ý định của James lừa Drew không thành, nhưng lại gây ấn tượng sâu đậm ở Drew tới mức người này mời James cùng cộng sự. Lúc đó, Drew đang sống mái với ông trùm về đường sắt nước Mỹ Cornelius Vanderbilt để giành giật công ty Erie Railroad có tuyến đường sắt từ New York tới biên giới Mỹ - Canada. Drew và Vanderbilt vốn là cừu thù của nhau từ lâu. Năm 1866, Vanderbilt quyết tâm giành quyền kiểm soát Erie Railroad mà cho tới khi đó Drew nắm giữ đa số cổ phiếu. Cách làm của Vanderbilt cổ điển đến mức dễ bị nhận thấy và bị lừa cho nên đã bị Drew và Fisk đưa vào bẫy. Đầu năm 1866, Drew bỏ tiền túi ra cho công ty Erie Railroad vay 3,5 triệu USD, đổi lại nhận được quyền sở hữu 58.000 cổ phiếu của công ty đường sắt này. Drew và Fisk nêu mục đích là nâng cấp tuyến đường sắt, nhưng trên thực tế nhằm hạ giá cổ phiếu để gây thiệt hại cho Vanderbilt. Họ lập hẳn một xưởng in riêng để in số cổ phiếu nói trên, chờ thời điểm thuận lợi và tung cùng một lúc ra thị trường. Chỉ trong vòng vài ngày, giá cổ phiếu của Erie Railroad giảm từ 80 cents xuống còn có 50,3 cents. Vanderbilt bị lỗ 5 triệu USD.
Để gỡ gạc, Vanderbilt tìm cách liên kết với Drew và Fisk nhằm đẩy giá cổ phiếu tăng bằng cách đổ tiền mua cổ phiếu. Hai người này thỏa thuận, nhưng lại không thực hiện thỏa thuận với Vanderbilt. Trong khi Vanderbilt mua vào thì họ lại bán ra. Vanderbilt mua chuộc và hối lộ cảnh sát cũng như tòa án ở nơi này để cấm Drew và Fisk hoạt động thì họ cũng làm như vậy ở bang khác để được hoạt động. Khi cuộc chiến giữa hai bên chính thức chấm dứt vào ngày 10-3-1866 thì cũng là lúc Vanderbilt bị thua thiệt tổng cộng hơn 8 triệu USD và Fisk đã gây dựng được vị thế vững chãi trong thế giới đầu cơ.
Nhưng lũng đoạn thị trường vàng ở Mỹ xem ra mới là thành tựu đầu cơ lớn nhất của Fisk. Fisk nhận ra cơ hội đó từ một hệ lụy của cuộc nội chiến: Chính phủ Mỹ dùng lạm phát để tài chi cho cuộc nội chiến bằng cách phát hành giấy bạc ngân hàng (được gọi là Greenback) không được bảo đảm bằng vàng, nhưng với cam kết là sau chiến tranh sẽ đổi lại ra vàng. Tổng thống Ulysses Grant khi tranh cử cũng dùng cam kết đó để vận động cử tri bỏ phiếu cho mình. James Fisk cùng với đối tác là Jay Gould âm mưu thống trị thị trường vàng trước khi chính phủ bán vàng ra để mua lại Greenback. Họ mua chuộc em rể của Tổng thống Grant để tác động Tổng thống trì hoãn việc bán vàng để cho họ có thời gian đầu cơ tích trữ vàng, đẩy giá vàng lên cao, nhưng sẽ bán đi trước thời điểm chính phủ bắt đầu bán vàng. Khi tổng thống Grant phát hiện ra và ra lệnh bán vàng ngay lập tức thì cũng đã quá muộn. Fisk và Gould đã tẩu tán hết số vàng đầu cơ và sau đó giá vàng sụt xuống thảm hại bắt đầu từ ngày Thứ Sáu, 14 - 9 - 1869, đẩy nền kinh tế nước Mỹ lâm vào khủng hoảng thực sự. Sự kiện đó đi vào lịch sử nước Mỹ với cái tên “Ngày thứ Sáu đen tối”, trở thành biểu tượng cho cơn ác mộng trên thị trường tài chính và chứng khoán. Fisk không dấu diếm cảm xúc riêng tư về sự việc này khi nói: “Chúng tôi được tất cả, chỉ mất có danh dự thôi”. Đối với Fisk, đầu cơ và danh dự là hai thứ mà muốn có được cái này thì phải chấp nhận mất cái kia.
Nhưng sự đời lại thật trớ trêu. Fisk thành công trong đầu cơ bao nhiêu thì lại đen đủi bấy nhiêu trong chuyện tình ái. Tất cả tình yêu của Fisk đều dành cho một cô gái điếm cao cấp tên là Josie Mansfield. Fisk lo cho nàng cuộc sống vương giả trong xã hội New York đương thời, nhưng rồi về sau nàng lại phải lòng đối tác của Fisk là doanh nhân cũng rất thành đạt Edward Stokes. Cả hai lập mưu dùng những bức thư tình của Fisk gửi cho nàng để tống tiền Fisk. Cả hai đều không hiểu rằng ngay đến cả danh dự cũng đã được Fisk dùng để đầu cơ thì Fisk đâu có hãi mấy trò tống tiền ấy. Bực tức vì sự từ chối và khinh bỉ của Fisk, ngày 6/2/1872, Stokes đã bắn chết Fisk ngay tại cửa vào một khách sạn ở New York. Stokes chỉ bị đi tù có 6 năm, nhưng Fisk đã chết ở độ tuổi 37. Những tín đồ của môn đạo đầu cơ thương tiếc Fisk, còn đối thủ của Fisk thở phào nhẹ nhõm vì tất cả họ đều biết rằng, năng lực đầu cơ của Fisk đang rất sung mãn và nếu Fisk còn sống thì rồi không biết chuyện gì sẽ còn xảy ra trong thế giới đầu cơ.
|
|
Hetty Green - Mụ phù thủy Phố Wall
Thế giới đầu tư tài chính khắc nghiệt, đặc biệt là ở Phố Wall, dường như lâu nay chỉ dành cho đàn ông. Thế nhưng, có một phụ nữ đã ghi danh của mình tại đây từ rất sớm. Hetty Green là người phụ nữ giàu nhất thế giới và cũng bị ghét, bị ganh tỵ nhất thế giới Đầu thế kỷ 20, ở nước Mỹ có một bài hát rất được ưa chuộng về một người phụ nữ không được ưa chuộng. Đó là bài hát “If I were as rich as Hetty Green” (tạm dịch là: Giá tôi giàu như Hetty Green). Tên của bà không chỉ đơn thuần là Hetty Green, mà còn luôn đi cùng với một biệt danh. Biệt danh đó cũng độc nhất vô nhị: Mụ phù thủy Phố Wall. Ở Phố Wall, số người thành công và có cá tính không ít, nhưng chỉ có một phù thủy.
Hetty Green là người phụ nữ duy nhất trong hai trăm năm đầu tiên của lịch sử nước Mỹ thành đạt trong thế giới Phố Wall
Bài hát ấy và cái biệt danh ấy đủ để khái quát toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp kinh doanh, đầu cơ của bà. Bà được coi là người phụ nữ giàu nhất thế giới và cũng bị ghét, bị ganh tỵ nhất thế giới. Bà nổi tiếng về tài đầu cơ, về khả năng kiếm tiền, nhưng đồng thời cũng cả về tính tiết kiệm đến keo kiệt bủn xỉn. Bà là hiện thân của khá nhiều nghịch lý ở nước Mỹ và trong thế giới đầu cơ thời đó. Ngày nay, ở nước Mỹ có không ít công trình công cộng và nhân đạo mang tên bà, cho dù cái biệt danh nói trên đã bị thời gian phủ bụi đến mức chỉ còn thoang thoảng như một giai thoại trong lịch sử Phố Wall. Có thể nói, Hetty Green là người phụ nữ duy nhất trong hai trăm năm đầu tiên của lịch sử nước Mỹ thành đạt trong thế giới Phố Wall – nơi đến tận bây giờ vẫn được coi là chỉ dành cho đàn ông là chính. Cho dù mức độ giàu có ngày càng tăng, nhưng Hetty Green vẫn chỉ luôn vận bộ váy áo cũ, luôn ăn ở tiệm ăn rẻ tiền với món ăn rẻ tiền, ở thuê trong căn hộ thuộc loại xoàng xĩnh cho dù sở hữu không biết bao nhiêu bất động sản. Nét mặt bà luôn nghiêm nghị, khó chịu và rất hiếm khi thấy bà cười. Tạp chí Broadway Magazine bầu bà là “người phụ nữ ít hạnh phúc nhất”. Bà đam mê kiếm tiền và kiếm được rất nhiều tiền, nhưng gần như lại không sử dụng số tiền ấy cho chính mình. Tài kiếm tiền, tính tiết kiệm thái quá và diện mạo bề ngoài là gốc rễ của cái biệt danh nói trên.
Những gì hậu thế kể về bà đều giống như huyền thoại, không biết cái gì là thật và cái gì chỉ là lưu truyền. Thông tin về bà hiện tại không thống nhất, thậm chí còn có phần trái ngược nhau, làm cho chuyện về bà càng thêm bí hiểm. Chẳng hạn như việc bà có được hay không được thừa kế khoản tiền hơn 7 triệu USD của cha cũng chẳng bao giờ có thể được xác minh rõ.
Chỉ biết rằng Henrietta Howland Robinson Green, tên họ khai sinh là Robinson, tên gọi thân mật là Hetty sinh ngày 21-11-1834 ở New Bedford/Massachusetts, mất ngày 3-7-1916 ở New York City. Bố mẹ bà là chủ của một hạm đội tàu thuyền săn cá voi và là triệu phú. Năm lên sáu, Hetty đã đọc báo chí kinh tế và đã mở tài khoản riêng, năm 13 tuổi đã phụ trách toàn bộ mảng việc kế toán trong công ty của bố mẹ, hay nói cách khác, bà liên quan đến tiền và chứng khoán từ rất sớm. Bố bà mất năm 1846. Có người cho rằng bà được thừa kế tài sản của bố, có người lại bảo bà chỉ được hưởng khoản tiền hàng tháng nhất định. Điều chắc chắn là năm 1868, Hetty chuyển sang nước Anh và kết hôn với triệu phú Edward Green. Họ có với nhau một con trai và một con gái.
Nước Anh cũng là nơi bà thành công với phi vụ đầu cơ đầu tiên: mua trái phiếu chính phủ Mỹ. Thời đó, chính phủ Mỹ của tổng thống Abraham Lincoln trang trải tài chính cho cuộc nội chiến bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Năm 1865, nội chiến kết thúc nhưng gần như tất cả - trừ Hetty Green - các nhà đầu tư và đầu cơ đều không tin rằng chính phủ tuy thắng trận nhưng không thể phục hồi được kinh tế và phát triển đất nước. Vì thế, giá trái phiếu tiếp tục giảm. Hetty dùng tất cả tiền bạc mua về tất cả trái phiếu có thể mua được bất chấp mọi can ngăn, cười chê và nhạo báng. Và rồi chuyện xảy ra đúng như dự đoán của Hetty. Nước Mỹ không chỉ tái thống nhất mà còn dần phục hồi. Trái phiếu chính phủ Mỹ lại tăng giá, giúp cho Hetty trong vòng không đầy một năm kiếm được 1,25 triệu USD. Thành công đó còn giúp Hetty tự tin đủ mức để trở lại Mỹ với mục đích chinh phục Phố Wall.
Vụ đầu cơ nổi tiếng thứ hai của Hetty là đầu tư vào các công ty xe lửa ở Mỹ. Hetty cho rằng sau chiến tranh, nhu cầu tái thiết cơ sở hạ tầng rất lớn và cấp thiết mà xe lửa sẽ được dành ưu tiên hàng đầu. Hetty tập trung mua cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp vào tất cả các hãng xe lửa, dù đó là xây dựng các tuyến đường sắt hay vận hành mạng lưới xe lửa trên khắp nước Mỹ. Kết quả là chỉ trong vòng có vài năm, Hetty tăng được gấp bốn lần số vốn bỏ ra.
Từ sau vụ này, Hetty Green chuyên tâm vào đầu cơ chứng khoán ở Phố Wall. Hàng ngày, người ta thấy Hetty trong bộ váy áo thường màu đen, nhàu cũ, đi bằng phương tiện giao thông công cộng từ căn hộ ở thuê đến Ngân hàng Chemical National Bank ở bên cạnh Phố Wall. Khi mua hay bán, khi nghiên cứu hay biết tin thắng đậm, người ta đều thấy nét mặt bà vẫn đăm đăm cau có, ít nói, hiếm khi cười. Hetty Green không liên minh, liên kết với ai, không đánh bóng tên tuổi mình bằng các hoạt động xã hội hay từ thiện như nhiều nhà triệu phú khác. Các con bà sau này dùng tiền bà để lại để làm từ thiện và các công trình phục vụ lợi ích cộng đồng tại quê hương bà. Để bất cứ lúc nào cũng có thể thực hiện thành công các phi vụ đầu tư và đầu cơ quy mô lớn, Hetty Green luôn trữ sẵn hàng chục triệu USD tiền mặt hoặc bất động sản dễ bán. Thành công của Hetty Green ở Phố Wall được coi là bằng chứng sống động nhất - mà từ cách đây hơn một thế kỷ - là phụ nữ cũng có thể đầu tư và đầu cơ hiệu quả chẳng kém gì đàn ông ở Phố Wall, và thế giới đầu cơ không phải là thế giới của riêng đàn ông. Khi qua đời vì bị nhồi máu cơ tim, bà để lại tài sản ngang bằng với John D. Rockefeller và J.P. Morgan. Nếu tính về giá trị của đồng tiền thì với số tiền đó ở thời điểm bây giờ, Hetty Green còn giàu hơn cả Warren Buffett.
Nổi tiếng không kém tài kinh doanh là những mẩu chuyện về tính tiết kiệm đến keo kiệt bủn xỉn của bà. Chẳng hạn như còn lưu truyền câu chuyện về việc bà thức trắng cả đêm để tìm một cái tem 20 xu, về bà không cho đốt nến cắm trên bánh sinh nhật lần thứ 21 mà gỡ ra cất đi để dùng cho sinh nhật lần sau, về chỉ dùng 200 USD trong số tiền 1.200 USD bố cho để mua váy mặc trong lễ trưởng thành, về chỉ chi 30 xu cho một bữa ăn, về uống sữa lạnh để tiết kiệm tiền khí bếp. Nhưng nổi tiếng nhất là chuyện khi cậu con trai đi trượt tuyết bị tai nạn, bà không cho đi chữa chạy trong bệnh viện tốt nhất mà chỉ đến bệnh viện dành cho người nghèo để tiết kiệm, với kết quả là cậu ta bị nhiễm trùng tới mức phải cưa chân. Bà tự biện minh cho mình bằng lập luận rằng, ở nơi đó không mất tiền thật nhưng đâu phải vì thế mà việc chữa chạy không tốt. Người ta cũng còn kể lại câu chuyện có lần một cô gái lấy hết can đảm để hỏi bà làm thế nào để trở nên giàu có như bà. Hetty Green nhìn cô gái trẻ như quan tòa nhìn tội phạm rồi nói: “Bằng cách đừng bỏ nhiều tiền ra mua quần áo như cháu”. Cái biệt danh nổi tiếng “Mụ phù thủy Phố Wall” bao hàm sự nể phục và ganh tỵ, ghen ăn tức ở của các đồng nghiệp nhưng cũng còn bởi những cá tính của chính bà.
Không phải ai khác mà chính bà đã tổng kết bí quyết thành công của mình như sau: “Tôi mua vào khi chứng khoán rẻ và chẳng ai muốn mua chúng. Tôi giữ chúng lại cho tới khi giá chúng tăng cao và ai cũng muốn mua chúng”. Nghe thì thật đơn giản và đúng là bản chất của đầu cơ, nhưng mấy ai đã làm được như vậy. Chắc chắn chỉ có phù thủy thì mới làm lần nào thắng lần ấy - như Hetty Green.
|
|
Nicola Horlik - Nữ "siêu nhân" trong cuộc chơi chứng khoán
Nếu như Hetty Green được mệnh danh là “Mụ phù thủy Phố Wall” từ hồi đầu thế kỷ 20 thì trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ ấy có một người phụ nữ khác được mệnh danh là “siêu nữ nhân”. Đó là Nicola Horlik. Nicola Horlik không đầu cơ bằng vốn riêng của mình mà bằng vốn của người khác Cả Hetty Green và Nicola Horlik đều giàu lên từ đầu cơ. Cả hai đều khiến đồng nghiệp và dư luận nể phục. Cả hai đều viết nên trang sử riêng trên thị trường chứng khoán. Nhưng mỗi người có cách đầu cơ thành công khác nhau và triết lý cuộc sống khác nhau.
Bất hạnh bất ngờ
Nicola sinh năm 1960 ở Nottingham (Anh), theo học tại Trường Đại học tổng hợp Oxford nổi tiếng, năm 1983 gia nhập công ty SC Warburg trước khi đến với tập đoàn Morgan Grenfell năm 1992. Tại đây, Nicola phụ trách mảng kinh doanh đầu tư của các quỹ hưu trí. Năm 1997, Nicola chuyển sang làm việc cho ngân hàng Societe General của Pháp. Năm 2005, cô thành lập công ty đầu tư chứng khoán riêng với tên gọi là Bramdean Asset Management.
Quản lý quỹ, nhất là các quỹ đầu cơ (hedge fund) là một trong những lĩnh vực kinh doanh đầy thách thức. Mỗi lần xảy ra khủng hoảng tài chính và náo động trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu cơ thường bị nêu danh và phê phán như tội đồ, còn các nhà quản lý quỹ thì bị coi như thủ phạm. Những chính trị gia cơ hội chủ nghĩa lại thường lên tiếng đòi kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động của các quỹ này và những nhà quản lý chúng. Nicola Horlik thành công trong điều hành hoạt động đầu tư và đầu cơ bao nhiêu thì lại bất hạnh trong đời tư bấy nhiêu. Người phụ nữ này có 6 con và một trong những lý do để Nicola được coi là “nữ siêu nhân” cũng ở đó. 6 đứa con này là kết quả của một cuộc hôn nhân kéo dài 20 năm. Với số tài sản cá nhân hơn 30 triệu EURO, với danh tiếng nổi như cồn trên thị trường chứng khoán và trong thế giới đầu cơ, với một gia đình đông con và cuộc hôn nhân bền chặt như vậy - hạnh phúc và may mắn dường như đều đã tới với Nicola. Nhưng số phận vốn không mỉm cười lâu với riêng ai. Năm 1998, cô con gái đầu lòng của Nicola bị chết vì bệnh máu trắng. Năm 2003 vợ chồng họ chia tay nhau sau hơn 20 năm chung sống.
Với ai khác thì những chuyện đó có thể là bình thường, nhưng với Nicola thì lại khác. Cô là người coi trọng cuộc sống gia đình hơn kinh doanh kiếm tiền, coi hạnh phúc gia đình hơn là giàu sang và nổi tiếng. Cuốn sách cô viết kể về những trải nghiệm trong thế giới tài chính ở London mang tên “Bạn có thể có được tất cả hay không?” được đánh giá và tiếp nhận như một cẩm nang đầu tư thông qua các quỹ đầu cơ. Trong đó, chính cô đã đưa ra câu trả lời cho riêng mình, nhưng cũng để cho hậu thế là: Tiền bạc có thể quan trọng, nhưng quan trọng hơn là một cuộc sống gia đình tốt đẹp. Tiền bạc có thể làm cho người ta trở nên giàu sang, nhưng cũng có thể làm họ trở thành bệnh hoạn. Cái chết của đứa con đầu lòng và sự đổ vỡ của cuộc hôn nhân vốn đã trải qua thời gian đến mức tưởng như không thể đổ vỡ được là hai cú đòn số phận giáng xuống Nicola. Cái mà người phụ nữ này vốn tôn thờ đã tan biến. Bài học mà Nicola rút ra được từ chính cuộc đời mình là, thành đạt trên lĩnh vực kinh doanh không phải là sự đảm bảo tất yếu cho cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Vượt lên số phận
Những cú đòn số phận ấy đã ảnh hưởng rất đáng kể tới triết lý đầu cơ của Nicola Horlik. Cô không đầu cơ bằng vốn riêng của mình vì số tài sản riêng quá nhỏ so với số tiền cần phải có để tiến hành các phi vụ đầu cơ. Cô đầu cơ bằng vốn của người khác với danh nghĩa là người quản lý các quỹ đầu tư. Cô hiểu rằng bởi mạnh vì gạo, bạo vì tiền nên rất nhiều người không thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán với số vốn ít ỏi, nhưng đầu tư vào đó lại là cơ hội để họ làm giàu, hoặc ít ra có thêm tiền. Để huy động vốn ở bộ phận công dân này, cô nêu ra khẩu hiệu “Tất cả trở nên giàu có”. Cô hạ thấp mức độ góp vốn tối thiểu xuống chỉ còn 1.000 EURO, tức là bằng một phần ba so với các quỹ khác tương tự. Mức phí quản lý quỹ của quỹ cô cũng thấp hơn (chỉ 1,5% trong khi các quỹ khác là 2%), dù tỷ lệ lợi nhuận được hưởng của quỹ cô cũng thấp hơn (15% trong khi các quỹ khác là 20%).
Một triết lý đầu tư khác nữa của Nicola Horlik là chắc chắn và thận trọng, nhưng phải thắng trong mọi chiều hướng diễn biến của thị trường, có nghĩa là phải xây dựng chiến lược đầu tư sao cho giá chứng khoán tăng hay giảm đều vẫn kiếm được lời. Thuật ngữ chuyên môn của chiến lược này là “long only”. Nghe về lý thuyết thì dễ, nhưng thực hiện mới khó vì phải phân tích đúng tình hình thị trường, dự báo chính xác xu thế tương lai và phải rất quyết đoán thì mới có thể thành công. Nicola Horlik nổi danh với chiến lược này tới mức còn được đặt cho biệt danh là “Bà Long Only”, bao hàm cả nể phục lẫn ganh tỵ.
Không có những phi vụ đầu cơ giật gân và tầm cỡ, nhưng bù lại lần nào cũng thắng; không kiếm được khoảng lời lớn trong thời gian nhanh nhất nhưng bù lại chưa lần nào thất bại; đó là nền tảng cho uy tín cá nhân của nhà đầu cơ này và chỉ như vậy thôi cũng đủ để Nicola Horlik được coi như một cây đa cây đề trên thị trường chứng khoán và thế giới tài chính ở London. Không chỉ ở đó mà ở trong thế giới tài chính và đầu cơ nói chung, số phụ nữ trụ vững được và thành đạt vốn đâu có nhiều.
Nicola Horlik vốn không phải người đã phát minh ra cái gọi là “đầu cơ thay thế”, nhưng đã đưa lại cho nó diện mạo và nội hàm mới. Cô gọi đó là “dân chủ hóa thị trường chứng khoán”, và trên thực tế nó là một trong những cách quảng cáo đắc dụng nhất cho thị trường chứng khoán..
Một trong những phi vụ mới đây nhất của Nicola Horlik là thành lập một quỹ đầu tư trị giá 250 triệu EURO, với mệnh giá của mỗi chứng chỉ quỹ chỉ là 100 cents. Ban đầu, những công ty có máu mặt trên thị trường chứng khoán không tin rằng Nicola có thể thương mại hóa được loại chứng chỉ quỹ với mệnh giá rất thấp như vậy. Nhưng chỉ một năm sau, họ đều phải công nhận Nicola Horlik đã thành công.
Có thể số phận đã mỉm cười trở lại với Nicola Horlik khi công chuyện làm ăn thành công và một cuộc hôn nhân mới cũng đã được tác thành. Nhưng những gì mà Nicola tâm niệm và tâm đắc vẫn không thay đổi. Một phần tư thu nhập cá nhân hàng năm của mình được cô sử dụng vào các mục đích từ thiện và nhân đạo. Trong thế giới tài chính và mọi hoạt động đầu cơ, cô vẫn cố gắng hành xử như một con người chứ không phải một cỗ máy làm ra tiền. Tiền là cần thiết và quan trọng, nhưng không phải là tất cả. Có người coi đó là sáo rỗng, nhưng đối với Nicola Horlik thì đó là một nhận thức phải trả giá một cách đau đớn.
|